Khơi dậy sức mạnh Việt từ tư duy 'phát triển bằng văn hóa'
PGS.TS Bùi Hoài Sơn - Ủy viên Thường trực Ủy ban Văn hóa và Xã hội của Quốc hội, nhận định đây là một bước chuyển tư duy có ý nghĩa chiến lược.
![]() |
| Các concert âm nhạc đang chứng minh rõ sức mạnh của văn hóa Việt khi được 'nâng cánh' bởi công nghệ và sự sáng tạo. Ảnh minh họa: ITN |
Dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội XIV chuyển trọng tâm từ “phát triển văn hóa” sang “phát triển bằng văn hóa”, coi văn hóa vừa là nền tảng tinh thần vừa là động lực tăng trưởng, biến giá trị tinh thần thành sức mạnh phát triển đất nước bền vững.
Đưa văn hóa vào trung tâm phát triển

PGS.TS Bùi Hoài Sơn.
Bước chuyển tư duy từ “phát triển văn hóa” sang “phát triển bằng văn hóa” không chỉ là thay đổi về từ ngữ mà còn là nhận thức, khẳng định vai trò trung tâm và định hướng chiến lược của văn hóa trong phát triển đất nước.
Nếu “phát triển văn hóa” tập trung vào đầu tư, nâng cao đời sống tinh thần và hoàn thiện các lĩnh vực văn hóa, thì “phát triển bằng văn hóa” nhấn mạnh văn hóa vừa là nguồn lực, vừa là động lực, vừa là phương thức để thúc đẩy tăng trưởng.
Trao đổi với Báo GD&TĐ, PGS.TS Bùi Hoài Sơn - Ủy viên Thường trực Ủy ban Văn hóa và Xã hội của Quốc hội, nhận định đây là một bước chuyển tư duy có ý nghĩa chiến lược. Trong nhiều năm qua, văn hóa thường được xem là một lĩnh vực quan trọng nhưng vẫn có phần tách biệt so với phát triển kinh tế - xã hội.
Nay, việc đặt “phát triển bằng văn hóa” trong Dự thảo Báo cáo chính trị thể hiện tầm nhìn mới, trong đó văn hóa không còn đứng bên lề mà đặt ở trung tâm mô hình phát triển, trở thành nền tảng tinh thần, nguồn lực nội sinh và sức mạnh mềm của đất nước.
“Phát triển bằng văn hóa” trước hết là phát triển dựa trên các giá trị, chuẩn mực, đạo đức, tri thức và sáng tạo mà văn hóa tạo nên. Văn hóa là “hệ điều tiết mềm” của xã hội, giúp định hướng hành vi, điều chỉnh quan hệ giữa con người với con người, giữa con người với thiên nhiên, giữa tăng trưởng vật chất và phát triển tinh thần.
Trong mô hình mới, con người không chỉ là đối tượng hưởng thụ thành quả mà còn là trung tâm, chủ thể sáng tạo, vừa là mục tiêu vừa là động lực của phát triển. Chính con người văn hóa - với tri thức, nhân cách, năng lực và khát vọng sẽ là yếu tố then chốt quyết định năng lực cạnh tranh của đất nước trong thời kỳ toàn cầu hóa và chuyển đổi số.
Chuyển tư duy từ “phát triển văn hóa” sang “phát triển bằng văn hóa” cũng đồng nghĩa với việc đưa văn hóa vào mọi lĩnh vực đời sống quốc gia. Văn hóa phải thấm sâu vào quản trị, vào đạo đức công vụ, trong hành vi ứng xử của doanh nghiệp và công dân, trong quy hoạch đô thị, trong lối sống, thẩm mỹ và sáng tạo. Khi văn hóa trở thành nền tảng cho tư duy, hành động và chính sách, thì mọi hoạt động phát triển đều được soi rọi, điều tiết bởi những giá trị nhân văn, bền vững và vì con người.
Theo PGS.TS Bùi Hoài Sơn, “phát triển bằng văn hóa” không chỉ là định hướng lý luận mà còn là yêu cầu thực tiễn trong bối cảnh đất nước bước vào giai đoạn phát triển mới, với những đòi hỏi ngày càng cao về chất lượng tăng trưởng và chiều sâu của phát triển con người. Trong thời đại kinh tế tri thức và sáng tạo, văn hóa trở thành nguồn lực kinh tế đặc biệt - nơi mà các giá trị tinh thần, bản sắc và sức sáng tạo được chuyển hóa thành sản phẩm, dịch vụ, giá trị vật chất và năng lực cạnh tranh quốc gia.

Một quốc gia có bản sắc rõ ràng, văn hóa phong phú… sẽ hấp dẫn, thuyết phục và lan tỏa hiệu quả. Ảnh minh họa: ITN
“Tư duy “phát triển bằng văn hóa” gắn chặt với nhiệm vụ phát triển các ngành công nghiệp văn hóa. Phát triển công nghiệp văn hóa là hiện thực hóa tầm nhìn “phát triển bằng văn hóa” qua hành động cụ thể.
Đó là quá trình biến các giá trị sáng tạo và bản sắc văn hóa thành nguồn lực kinh tế, tạo công ăn việc làm, đóng góp vào GDP và gia tăng sức mạnh mềm quốc gia”, PGS.TS Bùi Hoài Sơn cho hay.
Công nghiệp văn hóa không chỉ bao gồm các ngành, như: Điện ảnh, âm nhạc, thời trang, mỹ thuật ứng dụng, du lịch văn hóa hay trò chơi điện tử, mà còn là lĩnh vực kết nối sáng tạo, công nghệ và kinh tế. Khi giá trị văn hóa được nuôi dưỡng trong môi trường sáng tạo, tài năng nghệ thuật được khuyến khích và doanh nghiệp văn hóa được hỗ trợ, văn hóa sẽ trở thành cả “phần hồn” lẫn “nguồn lực vật chất” cho sự phát triển quốc gia.
PGS.TS Bùi Hoài Sơn cho rằng, thực tiễn quốc tế cho thấy nhiều quốc gia thành công nhờ phát triển công nghiệp văn hóa và kinh tế sáng tạo. Với Việt Nam, phát triển công nghiệp văn hóa là con đường hiện thực hóa tư duy “phát triển bằng văn hóa”, kết hợp giữa bảo tồn và sáng tạo, giữa truyền thống và hiện đại, giữa bản sắc và hội nhập. Khi điện ảnh, thiết kế, thời trang, âm nhạc hay du lịch Việt Nam được đón nhận rộng rãi trên thế giới, đó chính là minh chứng rõ nhất cho hướng đi này.
Tư duy này nhấn mạnh triết lý phát triển kinh tế không thể tách rời văn hóa. Nền kinh tế chỉ bền vững khi dựa trên giá trị văn hóa, tôn trọng đạo đức, trách nhiệm xã hội và sáng tạo. Văn hóa vì thế trở thành “sợi chỉ đỏ” xuyên suốt toàn bộ tiến trình phát triển, từ chính sách đến thực thi, từ kinh tế đến giáo dục, khoa học và môi trường.
Trong thời đại hội nhập, “phát triển bằng văn hóa” là con đường củng cố sức mạnh mềm của Việt Nam. Một quốc gia có bản sắc rõ ràng, văn hóa phong phú… sẽ hấp dẫn, thuyết phục và lan tỏa hiệu quả. Khi hình ảnh Việt Nam gắn liền với giá trị văn hóa và con người sáng tạo, đó chính là lợi thế cạnh tranh bền vững.
Chuyển từ “phát triển văn hóa” sang “phát triển bằng văn hóa” cũng khẳng định vai trò trung tâm của văn hóa, coi văn hóa vừa là nền tảng tinh thần, vừa là nguồn lực nội sinh và động lực của công nghiệp văn hóa. Khi văn hóa được đầu tư đúng tầm và thấm sâu vào mọi lĩnh vực, công nghiệp văn hóa trở thành trụ cột kinh tế sáng tạo, Việt Nam sẽ không chỉ “phát triển văn hóa” mà thực sự “phát triển bằng văn hóa”, bằng sức mạnh của giá trị Việt.
“Việt Nam đang bước vào giai đoạn “thức tỉnh” của công nghiệp văn hóa, với điện ảnh doanh thu trăm tỉ, âm nhạc lan tỏa trên nền tảng số, thương hiệu thời trang nội địa lớn mạnh, các liên hoan nghệ thuật sôi động và sản phẩm sáng tạo mang bản sắc Việt, từ phở, áo dài, nón lá đến tranh dân gian Đông Hồ, ca trù, quan họ, ví giặm… Mỗi sản phẩm vừa là di sản tinh thần, vừa là nguồn vốn kinh tế và thương hiệu văn hóa quốc gia”, PGS.TS Bùi Hoài Sơn - Ủy viên Thường trực Ủy ban Văn hóa và Xã hội của Quốc hội.





