Ngành logistics Việt Nam còn nhiều tiềm năng phát triển mạnh mẽ
Ngày 31/10, tại TP. Hồ Chí Minh diễn ra Hội nghị Logistics Việt Nam lần thứ 2 - năm 2024 với chủ đề “Chuyển đổi để bứt phá” do Báo Đầu tư tổ chức.
Hội nghị có sự tham dự Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Đỗ Thành Trung; Phó Cục trưởng Cục Xuất nhập khẩu Bộ Công Thương Trần Thanh Hải, Cục trưởng Cục Đường thuỷ nội địa Bộ Giao Thông Vận tải Bùi Thiên Thu cùng đại diện các cơ quan quản lý, các nhà lãnh đạo doanh nghiệp, các chuyên gia hàng đầu trong ngành logistics.
Theo các nhà quản lý, chuyên gia, ngành logistics toàn cầu đang chịu tác động từ nhiều yếu tố không thuận lợi như kinh tế toàn cầu phục hồi không chắc chắn, căng thẳng địa chính trị gia tăng, nguy cơ đứt gãy chuỗi cung ứng vẫn hiện hữu, nhu cầu thị trường tiêu dùng giảm sút, ảnh hưởng của thiên tai như siêu bão Yagi…
Quang cảnh tại Hội nghị Logistics Việt Nam lần thứ 2 - năm 2024. Ảnh: Sỹ Đồng |
Mặc dù còn nhiều khó khăn hiện hữu nhưng dự báo chung cho thấy, thị trường vẫn còn nhiều tiềm năng phát triển mạnh mẽ. Theo dự báo về triển vọng thị trường của Precedence Research, quy mô thị trường logistics toàn cầu có thể đạt 21,91 nghìn tỷ USD vào năm 2033, với tốc độ tăng trưởng kép hàng năm đạt 9,35% cho giai đoạn 2024 - 2033.
Tại Việt Nam, giá trị thị trường logistics đạt khoảng 40 tỷ USD vào năm 2023 và dự kiến sẽ tiếp tục tăng trưởng với tỷ lệ khoảng 14 - 15% hàng năm đến năm 2025. Ngành logistics hiện đang đóng góp khoảng 4 - 5% GDP, và tạo ra công ăn việc làm cho hơn 1 triệu lao động trực tiếp.
Theo ông Lê Trọng Minh - Tổng Biên tập Báo Đầu tư, chúng ta tiếp tục được chứng kiến những bước tiến mới của ngành logistics Việt Nam với các con số ấn tượng. Trong đó, logistics đã trở thành một trong những ngành tăng trưởng nhanh nhất tại Việt Nam, với tốc độ bình quân khoảng 16%/năm, đóng góp khoảng 4,5% GDP và vươn lên thuộc nhóm 5 quốc gia đứng đầu khu vực ASEAN.
Ông Lê Trọng Minh - Tổng Biên tập Báo Đầu tư phát biểu tại hội nghị. Ảnh: Ban tổ chức |
Các hiệp định thương mại tự do mà Việt Nam đang tham gia, vị trí chiến lược trong các tuyến giao thương quốc tế, sức hấp dẫn của môi trường đầu tư… đang ngày một cải thiện, được minh họa rõ nét bởi sự tăng trưởng dòng vốn đầu tư nước ngoài, xuất nhập khẩu tiếp tục đà hồi phục mạnh mẽ sau thời gian bị tác động tiêu cực bởi đại dịch Covid-19.
Đặc biệt là quyết tâm của Chính phủ trong việc đẩy mạnh các đại dự án cơ sở hạ tầng trên khắp các lĩnh vực đường bộ, đường không, cảng biển, đường sắt… cũng như thúc đẩy mạnh mẽ quá trình chuyển đổi kép gồm chuyển đổi số và chuyển đổi xanh đang mở ra nhiều cơ hội chưa từng có tiền lệ cho ngành logistics Việt Nam phát triển.
Tuy nhiên, để con đường phía trước của logistics Việt Nam sẽ là con đường màu xanh như nhiều người kỳ vọng không chỉ đơn giản dựa vào những tiềm năng, lợi thế sẵn có mà đạt được.
“Dù điểm số có cải thiện trên bảng xếp hạng, nhưng vị trí thứ 43 trên toàn cầu về “Chỉ số hiệu suất logistics” (Logistics Performance Index) hàm ý nhắc nhở rằng, ngành logistics Việt Nam chỉ tiến lên thôi là chưa đủ, mà còn cần phải bứt phá để vượt lên trong một thế giới cũng đang chuyển mình nhanh chóng. Để bứt phá, dứt khoát cần có những chuyển đổi mạnh mẽ”, ông Minh nói.
Tại hội nghị, Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Đỗ Thành Trung cũng chỉ ra những tồn tại, hạn chế dù thời gian qua ngành logistics của Việt Nam đã đạt được những kết quả tích cực.
Theo ông Trung, chính sách, thể chế đối với ngành logistics Việt Nam còn thiếu và chưa đồng bộ, chưa có khung khổ pháp lý đầy đủ đối với ngành logistics; cơ sở hạ tầng giao thông vận tải và hạ tầng logistics như kho hàng, bến bãi, trung tâm logistics còn hạn chế, chưa đồng bộ, chưa hình thành được các hành lang vận tải đa phương thức thông suốt, còn thiếu các trung tâm logistics ở vị trí chiến lược, kết nối với hệ thống cảng, sân bay, đường bộ và cơ sở sản xuất.
Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Đỗ Thành Trung chỉ ra những thách thức, hạn chế về ngành logistics Việt Nam. Ảnh: Ban tổ chức |
Bên cạnh đó, doanh nghiệp logistics Việt Nam còn hạn chế về trình độ, kinh nghiệm, vốn, nguồn nhân lực, khả năng cạnh tranh còn yếu, thường đóng vai trò nhà thầu phụ hay đại lý cho các tập đoàn nước ngoài; nguồn nhân lực được đào tạo chuyên ngành logistics còn thiếu, chưa đáp ứng được yêu cầu, đặc biệt là thiếu các nhân sự logistics trình độ cao, có năng lực ứng dụng và triển khai các công nghệ mới tại các doanh nghiệp.
Những tồn tại, hạn chế nêu trên đang đặt ra thách thức không nhỏ cho Việt Nam trong việc phát triển ngành logistics trong thời gian tới. Bên cạnh đó, thế giới ngày hôm nay đang chứng kiến những biến động phức tạp về an ninh, địa chính trị và sự phát triển rất nhanh của khoa học công nghệ, đặc biệt là công nghệ số như Dữ liệu lớn (Big Data), Chuỗi khối (Blockchain), Trí tuệ nhân tạo (AI)... đem đến những thách thức không nhỏ cho ngành logistics Việt Nam.
“Các doanh nghiệp logistics muốn tồn tại và phát triển bắt buộc phải cải tiến hoạt động, đẩy mạnh chuyển đổi số, đầu tư ứng dụng các công nghệ mới để nâng cao hiệu quả hoạt động và khả năng cạnh tranh. Đây là những thách thức không nhỏ đối với các doanh nghiệp logistics Việt Nam vốn phần lớn là các doanh nghiệp vừa và nhỏ với kinh nghiệm, nguồn vốn, trình độ nguồn nhân lực còn hạn chế”, ông Đỗ Thành Trung nói.
Tuy nhiên, đây cũng là một cơ hội lớn khi các doanh nghiệp được thúc đẩy thực hiện quá trình chuyển đổi nhanh hơn, mạnh mẽ hơn, thực chất hơn. Doanh nghiệp nào nắm bắt tốt hơn các làn sóng công nghệ mới sẽ vượt lên trên các doanh nghiệp khác, cũng như quốc gia nào nắm bắt tốt hơn các làn sóng công nghệ mới sẽ vượt lên trên các quốc gia khác.
“Câu hỏi đặt ra là làm thế nào để các doanh nghiệp logistics Việt Nam có thể nắm bắt, ứng dụng được các công nghệ mới, tận dụng được những tiềm năng sẵn có của đất nước và những cơ hội khách quan mang lại để có đủ sức cạnh tranh cả ở trong nước và quốc tế, để đưa ngành logistics của Việt Nam phát triển xứng đáng với tiềm năng, thế mạnh của mình”, ông Đỗ Thành Trung nhấn mạnh.