Hành trình 50 năm “đi tìm lửa” và tầm nhìn mới của Petrovietnam
Trong chuỗi hoạt động kỷ niệm 64 năm Ngày truyền thống ngành Dầu khí Việt Nam và 50 năm thành lập Tập đoàn Công nghiệp - Năng lượng Quốc gia Việt Nam (Petrovietnam), sáng 6/12, Tạp chí Năng lượng Mới - PetroTimes đã tổ chức tọa đàm “Petrovietnam trong hành trình phát triển cùng đất nước”.
Tọa đàm quy tụ các chuyên gia kinh tế, nhà quản lý và những người đã gắn bó với ngành Dầu khí, cùng chia sẻ góc nhìn về hành trình nửa thế kỷ của Petrovietnam - từ vai trò trong phát triển kinh tế, an ninh năng lượng đến những dấu ấn mang tầm quốc gia. Không chỉ là một cuộc thảo luận chính sách, sự kiện còn là dịp để nhìn lại chặng đường đầy bản lĩnh và khát vọng mà ngành Dầu khí đã đi qua.
![]() |
| Toàn cảnh buổi tọa đàm. |
Tọa đàm có sự tham dự của các chuyên gia, nhà quản lý, khách mời gồm: TS Nguyễn Quốc Thập - Chủ tịch Hội Dầu khí Việt Nam; bà Phạm Thúy Chinh - Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế và Tài chính của Quốc hội; ông Nguyễn Văn Phụng - Chuyên gia cao cấp về thuế và quản trị doanh nghiệp, nguyên Cục trưởng Cục Thuế Doanh nghiệp lớn (Bộ Tài chính); PGS.TS Nguyễn Thường Lạng - nhà kinh tế học với nhiều nghiên cứu về cấu trúc ngành, cạnh tranh toàn cầu và mô hình phát triển công nghiệp - năng lượng.
Toạ đàm diễn ra trong không khí trao đổi học thuật nhưng cũng đậm màu ký ức, bởi câu chuyện về Petrovietnam trong buổi sáng tháng 12 ấy là câu chuyện của nửa thế kỷ "đi tìm lửa" và "giữ lửa".
Mở đầu tọa đàm, TS Nguyễn Quốc Thập khẳng định, nhìn lại 50 năm, điểm nổi bật nhất của Petrovietnam là đã đảm đươngmột trọng trách hết sức nặng nề, nhưng cũng rất vẻ vang: như vừa là trụ cột năng lượng quốc gia, vừa là lực lượng kinh tế chủ lực, vừa là biểu tượng hiện hữu trên các vùng biển của Việt Nam.
Về kinh tế, với hơn 440 triệu tấn dầu đã được khai thác và gần 200 tỷ mét khối khí đã được đưa vào bờ trong suốt nửa thế kỷ qua, Petrovietnam đã đảm bảo phần đáng kể nguồn năng lượng thiết yếu cho sản xuất, tiêu dùng và phát triển kinh tế đất nước và ổn định vĩ mô – là nền tảng để Việt Nam duy trì tăng trưởng cả trong những giai đoạn biến động khắc nghiệt của thị trường và địa chính trị trên thế giới.
Petrovietnam cũng luôn nằm trong nhóm doanh nghiệp đóng góp ngân sách lớn nhất và ổn định nhất. Điều đáng quý là ngay cả khi thị trường dầu khí toàn cầu biến động mạnh, Tập đoàn vẫn giữ được kỷ luật vận hành, duy trì nguồn thu chắc chắn cho ngân sách Nhà nước.
Theo TS Nguyễn Quốc Thập, những con số ấy mới chỉ là phần nổi. Sứ mệnh lớn nhất mà Petrovietnam thực hiện trong nửa thế kỷ qua là góp phần bảo đảm “5 An”: an ninh năng lượng, an ninh kinh tế, an ninh lương thực, an ninh quốc phòng và chủ quyền quốc gia trên biển, đồng thời gánh vác trách nhiệm an sinh xã hội ở nhiều vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, hải đảo. Từ việc bền bỉ thực hiện sứ mệnh “5 An”, Petrovietnam đã khẳng định vị thế của một tập đoàn kinh tế hàng đầu với những thành tựu “5 Nhất”: quy mô tài sản hợp nhất vượt 1 triệu tỷ đồng, vốn chủ sở hữu hơn 556 nghìn tỷ đồng; đóng góp ngân sách bình quân khoảng 160 nghìn tỷ đồng/năm, chiếm khoảng 80% tổng nộp ngân sách của 18 tập đoàn, tổng công ty nhà nước; lợi nhuận giai đoạn 2020-2025 đạt 316 nghìn tỷ đồng, tương đương 2,2 tỷ USD mỗi năm; là doanh nghiệp duy nhất đạt và đạt nhiều giải thưởng cao quý về khoa học – công nghệ, trong đó có 6 giải thưởng Hồ Chí Minh và 4 giải thưởng Nhà nước, cùng nhiều sáng chế trong nước và quốc tế; dẫn đầu các doanh nghiệp nhà nước về quy mô, chất lượng hoạt động an sinh xã hội với hơn 5,13 nghìn tỷ đồng chỉ trong 5 năm gần đây. “Trên tất cả, điều làm nên sức mạnh của ngành Dầu khí không phải những tấn dầu hay mét khối khí, mà là con người dầu khí - những người đã biến khát vọng thành hiện thực và dựng nên một ngành công nghiệp mang tầm vóc quốc gia”, TS Nguyễn Quốc Thập cho biết.
![]() |
| Cụm công nghiệp Khí - Điện - Đạm Cà Mau |
Ở góc nhìn tài khóa và quản trị doanh nghiệp lớn, ông Nguyễn Văn Phụng - người có hơn 40 năm làm việc trong ngành thuế, trong đó 20 năm trực tiếp theo dõi Petrovietnam - lý giải vì sao Tập đoàn trở thành một trong những nguồn thu ổn định, đáng tin cậy nhất của ngân sách nhà nước. Yếu tố đầu tiên, theo ông, là kỷ luật tài chính nghiêm ngặt. “Petrovietnam là doanh nghiệp hiếm hoi mà cơ quan thuế có thể hoàn toàn yên tâm về “doanh nghiệp thật - số liệu thật”. Dòng tiền, đầu tư, phân bổ ngân sách, thu - chi đều được quản trị chặt chẽ, minh bạch, tiệm cận chuẩn mực quốc tế”, ông Nguyễn Văn Phụng nhấn mạnh. Nhờ vậy, Nhà nước có thể dự báo tương đối chính xác nguồn thu từ dầu khí và chủ động hơn trong điều hành tài khóa.
Yếu tố thứ hai là cấu trúc chuỗi giá trị rộng, có khả năng bù trừ rủi ro theo chu kỳ kinh tế. Petrovietnam không chỉ dựa vào xuất khẩu dầu thô, mà vận hành một hệ sinh thái khép kín: thăm dò - khai thác; khí - điện - đạm; lọc - hóa dầu; dịch vụ kỹ thuật; vận tải biển và nhiều mắt xích công nghiệp khác. Khi giá dầu giảm sâu, các lĩnh vực điện, đạm, khí, lọc hóa dầu vẫn tạo ra dòng thu ổn định, giúp cân bằng rủi ro. Hệ sinh thái ấy còn kéo theo công nghiệp hỗ trợ, dịch vụ, góp phần bảo đảm an ninh - quốc phòng và sinh kế người dân, từ những chương trình như “Hạt ngọc mùa vàng” trên cánh đồng đến các công trình an sinh ở vùng sâu, vùng xa.
Yếu tố thứ ba, theo ông Nguyễn Văn Phụng, là năng lực dự báo, lập kế hoạch và hạch toán kinh doanh. Petrovietnam luôn xây dựng các kịch bản giá dầu, sản lượng, chi phí và dòng tiền sát với thực tế. Nhà máy Lọc dầu Dung Quất là ví dụ điển hình bởi ban đầu chỉ thiết kế để lọc dầu thô từ mỏ Bạch Hổ, đến nay đã thích ứng và vận hành được với dầu từ hơn 30 quốc gia khác, thể hiện trình độ dự báo, tối ưu hóa sản xuất và quản trị rủi ro cao. Trong các giai đoạn khủng hoảng, từ năm 2008 đến giai đoạn giá dầu giảm sâu 2014-2016, Petrovietnam vẫn duy trì nguồn thu lớn cho ngân sách. “Một miếng khi đói bằng một gói khi no, vai trò của dầu khí trong những năm khó khăn càng cho thấy giá trị tích lũy của ngành đối với ổn định tài khóa quốc gia”, ông Nguyễn Văn Phụng đúc kết.
Đại diện cơ quan lập pháp, bà Phạm Thúy Chinh - Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế và Tài chính của Quốc hội khẳng định, Petrovietnam giữ vị trí “đặc biệt quan trọng” trong nhiều cấu phần cốt lõi của nền kinh tế. Theo bà, trước hết, Petrovietnam là một trong những trụ cột của tăng trưởng và ổn định kinh tế vĩ mô: duy trì đóng góp ngân sách, GDP ở mức cao, ổn định; tạo công ăn việc làm trực tiếp và gián tiếp cho hàng chục nghìn lao động; bảo đảm nguồn cung xăng dầu, khí, điện, đạm cho nền kinh tế. Thứ hai, Petrovietnam gắn chặt với Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển và bảo đảm an ninh quốc phòng, bởi phần lớn hoạt động dầu khí diễn ra tại vùng biển xa bờ, nơi mỗi giàn khoan, mỗi chân đế vừa là công trình kinh tế, vừa là “cột mốc” chủ quyền. Thứ ba, Tập đoàn là lực lượng tiên phong trong đổi mới sáng tạo, khoa học - công nghệ và chuyển đổi số, đáp ứng tinh thần Nghị quyết 57 của Bộ Chính trị về phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia.
Từ góc nhìn của Quốc hội, bà Phạm Thúy Chinh coi Petrovietnam là hình mẫu cho thấy doanh nghiệp nhà nước hoàn toàn có thể hoạt động hiệu quả, minh bạch, có sức cạnh tranh cao nếu được trao cơ chế phù hợp. Trong bối cảnh Chính phủ đang xây dựng Đề án về kinh tế nhà nước với nhiều nhiệm vụ, giải pháp đổi mới quản trị doanh nghiệp nhà nước, Petrovietnam được kỳ vọng tiếp tục phát huy vai trò “doanh nghiệp dân tộc”, nắm giữ nguồn lực chiến lược và dẫn dắt những bước chuyển mới của nền kinh tế. Kết thúc phần trao đổi, bà Phạm Thúy Chinh gửi gắm bốn câu thơ như một lời chúc:
“50 năm lửa biển vẫn hồng lên ngọn sóng
Dầu khí khai thông thắp sáng những chân trời
Khí, năng lượng mới mở đường cho gió nổi
Petrovietnam bền ý chí - vững tương lai”.
![]() |
| Nhà máy Lọc dầu Dung Quất |
Trên nền các phân tích vĩ mô, PGS.TS Nguyễn Thường Lạng đặt Petrovietnam trong khung lý luận của kinh tế học phát triển. Ông cho rằng dấu ấn lớn nhất trong 50 năm của Tập đoàn là bước “thăng hạng” về tư duy và mô hình phát triển. Từ những ngày sơ khai với vài giàn khoan ngoài khơi, Petrovietnam đã từng bước tích lũy nội lực để hình thành một hệ sinh thái công nghiệp - năng lượng hoàn chỉnh, bao trùm. Tầm vóc của Petrovietnam, vì thế, không thể chỉ đo bằng số tấn dầu thô, mà phải nhìn vào chuỗi liên kết rộng lớn từ thăm dò - khai thác, lọc - hóa dầu, khí - điện - đạm, dịch vụ công nghiệp, vận tải biển, chế tạo giàn khoan... Mỗi lĩnh vực không chỉ tạo ra giá trị kinh tế riêng, mà quan trọng hơn là tạo nên sự gắn kết và lan tỏa, góp phần nâng tầm cấu trúc, năng suất và sức cạnh tranh của nền kinh tế.
![]() |
| Tổ hợp kho cảng PV GAS VUNG TAU rộng lớn với diện tích hơn 40ha, có khả năng đón nhận những "siêu tàu" chở LNG trọng tải lên đến 100.000 DWT |
Theo PGS.TS Nguyễn Thường Lạng, động lực phát triển mới của Petrovietnam đến từ chính chiều sâu liên kết trong hệ sinh thái công nghiệp - năng lượng đã được xây dựng trong suốt nửa thế kỷ. Chuỗi khí - điện - đạm là một ví dụ điển hình: khí từ các mỏ ngoài khơi được đưa vào bờ để sản xuất điện; điện và khí là đầu vào quan trọng cho sản xuất phân bón; từ đó tạo nên một chuỗi giá trị bền vững, ít rủi ro hơn so với việc phụ thuộc vào xuất khẩu dầu thô. Chuỗi lọc - hóa dầu cũng tạo động lực lan tỏa mạnh mẽ sang nhiều ngành công nghiệp khác. Trong bối cảnh cả thế giới chuyển dịch năng lượng, việc Petrovietnam từng bước tham gia các lĩnh vực LNG, hydrogen, điện gió ngoài khơi... sẽ mở ra các chuỗi giá trị mới, nếu thể chế kịp thời tạo hành lang cho những mô hình này.
Nhìn về tương lai, các diễn giả cùng gặp nhau ở điểm chung: thể chế và chính sách sẽ là “đường băng” cho những bước cất cánh mới của Petrovietnam. Bà Phạm Thúy Chinh nhấn mạnh yêu cầu xây dựng một khung pháp lý thống nhất, liền mạch cho toàn bộ chuỗi khí - điện - đạm, lọc - hóa dầu, LNG... vốn liên quan tới nhiều bộ, ngành khác nhau. Khung pháp lý đồng bộ, phân định rõ trách nhiệm, phân cấp, phân quyền hợp lý, đi kèm chính sách thuế - tài chính ổn định, phù hợp đặc thù dự án năng lượng dài hạn, sẽ giúp rút ngắn thời gian phê duyệt, giảm chi phí và tạo niềm tin cho nhà đầu tư.
Ở góc nhìn khác, ông Nguyễn Văn Phụng chỉ ra những vướng mắc hiện nay: khung pháp lý cho LNG, điện khí, hydrogen, công nghệ thu giữ - lưu trữ carbon vẫn chủ yếu dựa trên tư duy của mô hình dầu khí truyền thống; cơ chế ưu đãi cho đầu tư xanh, công nghệ sạch chưa thật rõ ràng và đủ mạnh; tính ổn định của chính sách vẫn là mối quan ngại với các dự án có vòng đời 15-20 năm. Ông cho rằng muốn Petrovietnam thực sự tăng tốc trong chuyển dịch năng lượng, hệ thống pháp luật phải được hoàn thiện nhanh và đồng bộ hơn, đồng thời quốc gia cần ban hành các gói ưu đãi đủ lực để chia sẻ rủi ro với doanh nghiệp.
![]() |
| “Trên tất cả, điều làm nên sức mạnh của ngành Dầu khí không phải những tấn dầu hay mét khối khí, mà là con người dầu khí - những người đã biến khát vọng thành hiện thực và dựng nên một ngành công nghiệp mang tầm vóc quốc gia”, TS Nguyễn Quốc Thập nhận định. |
Trên nền tảng đó, TS Nguyễn Quốc Thập nhìn nhận chuyển dịch năng lượng là một cơ hội rất lớn, song cũng là phép thử quan trọng đối với Petrovietnam. Nghị quyết 70 của Bộ Chính trị dành riêng cho ngành Dầu khí đã tháo gỡ nhiều điểm nghẽn thể chế; trách nhiệm lúc này thuộc về cấp tổ chức thực thi. Theo ông, chiến lược của Petrovietnam trong giai đoạn tới phải là mục tiêu kép: tiếp tục phát huy hiệu quả nguồn tài nguyên truyền thống - nâng cao hệ số thu hồi, làm chủ công nghệ, tối ưu hóa khai thác dầu khí để bảo đảm an ninh năng lượng và tạo nguồn lực tài chính; đồng thời chủ động, thận trọng nhưng quyết liệt mở rộng sang các lĩnh vực năng lượng mới như LNG, điện gió ngoài khơi, amoniac, hydrogen xanh, công nghệ thu giữ - lưu trữ carbon. Việc lựa chọn lĩnh vực, đối tác, quy mô đầu tư cần gắn chặt với năng lực cốt lõi đã được kiểm chứng trong 50 năm qua. “Năng lượng mới là cơ hội, nhưng cũng đi kèm rủi ro lớn nếu chúng ta rời bỏ quá nhanh những năng lực đã được chứng minh hiệu quả. Và chuyển dịch năng lượng phải đi đôi với bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia”, TS Nguyễn Quốc Thập nhấn mạnh.
Buổi tọa đàm khép lại, nhiều đại biểu vẫn còn nán lại bên hành lang, trao đổi thêm. Những phân tích kinh tế học, những luận điểm về thể chế, tài khóa, công nghệ rốt cuộc đều quay trở lại một điểm chung: Petrovietnam là một “doanh nghiệp dân tộc”, gắn chặt với hành trình phát triển của đất nước.
Năm mươi năm “lửa biển vẫn hồng lên ngọn sóng” là năm mươi năm một tập thể doanh nghiệp nhà nước chứng minh được rằng, với tầm nhìn chiến lược, kỷ luật tài chính, tri thức khoa học - công nghệ và bản lĩnh, một ngành công nghiệp có thể đi từ con số 0 để trở thành trụ cột về năng lượng, về tài chính, về an ninh - quốc phòng và về khát vọng phát triển của cả một quốc gia. Và từ nền tảng ấy, Petrovietnam đang bước vào giai đoạn mới, nơi những giàn khoan, nhà máy và cả những dự án năng lượng xanh sẽ tiếp tục nối dài hành trình phát triển cùng đất nước.
Yên Chi








